HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG

14 Tháng Bảy 20166:51 CH(Xem: 26043)

HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG

-Dr. VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền, N.D.

 

1-Ý NIỆM  VỀ KHÍ:

        Đối với người Tây phương, Khí được hiểu bằng những danh từ như: energy, vital energy, life force, bio-force, electromagnetism. Cũng như, animal magnetism ở Úc châu do Mesmer; odic force ở Đức do Baronvon Reichenbach; orgone energy ở Mỹ do Wilhelm Reich; bio-plamsm ở Nga do Inyushin.

      Khí (Energy) tức là năng lực, năng lượng.  Khí thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như : nhiệt năng, cơ năng, quang năng, điện năng, hóa năng, Năng lực tinh thần, . . . 

      Khí và vật có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khí cấu tạo ra vật, và cùng kết hợp với vật. Vật hoạt động sinh ra khí.

      Ngoài ra, cơ quan có sự liên hệ mật thiết với cơ năng.  Cơ năng quyết định sự hình thành và phát triển cơ quan. Cơ quan sinh hoạt biến thành cơ năng.

      Nhà khoa học Einstein đã giải thích sự liên hệ giữa khí và vật bằng phương trình E = M x C 2 (M C bình phương). Năng lượng khí bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng.

     Năng lượng khí và khối lượng vật chỉ là một, nhưng ở hai hình thức khác nhau. Khi khối lượng vật chất bị phá hủy, kết quả sẽ sinh ra năng lượng khí được tỏa ra.

      Về phương diện sinh lý, cơ thể con người là một thể chất hóa hợp của những tế bào, phân tử, nguyên tử khác nhau. Tùy theo, những yếu tố và điều kiện sống chung quanh như: thực phẩm, nước uống, không khí, thời tiết, xã hội, . . . nguồn năng lực Khí trong cơ thể được gia tăng, hay bị suy giảm.

     Trong đời sống hàng ngày, nguồn năng lực Khí đóng một vai trò rất quan trọng, trong sự liên quan mật thiết giữa cơ thể và tâm trí con người. Cũng như, hơi thở qua việc hô hấp không khí là một yếu tố quan trọng nhất, trong tiến trình phát sinh năng lực Khí con người.

     Qua tiến trình hô hấp không khí, dưỡng khí (Oxygen) trong không khí được gạn lọc như một nhiên liệu căn bản, dùng đốt cháy thực phẩm, để sinh ra năng lực Khí, Thán khí(Carbon Dioxide), và nước, theo phương trình hóa học như sau:

           FOOD  +  OXYGEN  - - - - - -  ENERGY  +   CARBON  DIOXIDE   +   WATER

          (Đồ Ăn) + (Dưỡng Khí) - - - - - (Năng Lực) +  (Thán Khí)  +   (Nước) .

     Năng lực Khí được sinh ra từ phản ứng hóa học của dưỡng khí và đồ ăn, được dùng bồi dưỡng, điều hòa nhiệm vụ não bộ, các bộ phận trong cơ thể, và tạo nên một sức mạnh chịu đựng, dẻo dai về thể chất lẩn tinh thần.

     Để có nguồn năng lực Khí sung mãn, trong đời sống khỏe mạnh, ngoài hai yếu tố cần thiết phải có như dưỡng khí trong không khí trong lành, và thức ăn tươi tốt có đầy đủ chất dinh dưỡng, người ta cần phải có thêm những yếu tố hỗ trợ khác như: nước uống tinh khiết, ánh nắng mặt trời, nghỉ ngơi tịnh dưỡng, tâm trí quân bình, và thể dục.

2-HÔ HẤP VÀ SỰ SỐNG :

     Trong hô hấp, hít thở không khí đóng một vai trò quan trọng nhất trong sự sống con người.  Do đó, hô hấp là để sống, sống cần phải có hô hấp, vì hô hấp tạo nên hơi thở, và nguồn sinh lực Khí trong con người. Nếu hơi thở chấm dứt, tiếp theo, sự chết đến ngay với con người. 

     Sau một công việc mệt nhọc, hay một ngày lao tâm, lao lực, người ta áp dụng một số phương pháp hô hấp hít thở không khí đúng cách. Kết quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh thần tươi tỉnh. Sinh lực được phục hồi là nhờ vào sự biến năng của dưỡng khí, do không khí mang vào cơ thể.      

     Hơi thở của một người khỏe mạnh bình thường được gọi là hơi thở tự nhiên, cần phải hội đủ bốn đặc tính như sau: yên lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều hòa. Hơi thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng, nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào, kể cả việc ý thức về hơi thở. 

    Nói cách khác, hơi thở khỏe mạnh tự nhiên là hơi thở không dài, không ngắn, êm đềm, và đều đặn. Khi đạt được hơi thở như thế, cơ thể cảm thấy khỏe khoắn, nhẹ nhàng, tình cảm an hòa, bình tĩnh, và linh hồn minh mẫn.

    Tuy nhiên, đối với người bệnh, sức khỏe yếu kém, hơi thở thường có vẽ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi hít vào vô cùng ngắn, thở ra thường kéo dài, đôi khi ngược lại.  Những người có hơi thở mất bình thường như thế, thể chất và tinh thần của họ dễ trở nên yếu đuối, tình cảm bất an, thường đưa đến những lo âu, buồn nản, thiếu ý chí kiên nhẫn, trong đời sống hàng ngày.

    Tiếp tục như thế, trong dài hạn, điều kiện sức khỏe thể chất lẩn tinh thần của họ sẽ gặp nhiều khó khăn.  Do đó, hơi thở của những người nầy cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc tập luyện khí công.  Dần dần, với thời gian, khí công có thể giúp họ phục hồi hơi thở  khỏe mạnh bình thường.

     Nhịp độ thở trung bình của người khỏe mạnh bình thường là 18 hơi thở ra vào trong một phút. Trong tiến trình tập khí công, thời gian cho mỗi hơi thở ra vào, càng lúc cần được kéo dài thêm. Vì vậy, khi đến giai đoạn tiến bộ, học viên nên tập để nhịp độ thở trung bình giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần hơi thở ra vào trong một phút.

     Các nhà thiền sư, đạo sĩ thường tập giữ cho nhịp độ thở ra vào, từ 5 xuống tới 2 hơi thở ra vào trong một phút. Với tư thế ngồi thiền tịnh tâm, họ có thể tập kéo dài trong 30 phút.  Có hai cách thông thường để giữ cho nhịp độ thở giảm xuống : Tạo nên hơi thở nhẹ nhàng, hay đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (Đan Điền).

3-BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG  KHÍ CÔNG :

     Đối với người mới nhập môn khí công, điều quan trọng nhất là việc hiểu biết về sinh lý căn bản của các bộ phận liên hệ đến tiến trình hô hấp của con người như sau:

      3.1-Nhiệm  Vụ  Của  Phổi : Bộ máy hô hấp của con người gồm có hai lá phổi, và những bộ phận trung gian, để dẫn không khí ra vào hai lá phổi như : mũi, miệng, yết hầu, thanh quản, khí quản, và cuống phổi.  Hai lá phổi được nằm ở hai bên đường trung tuyến trong lồng ngực, và được ngăn cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm ba thùy.  Lá phổi bên trái có hai thùy.

     Nơi tận cùng của ống khí quản được tiếp nối với hai cuống phổi lớn, và các động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá phổi trái và phải.  Từ đó, hai cuống phổi lớn và các động mạch, càng vào bên trong phổi, càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ dần, để dẫn đến tận cùng những túi nhỏ chứa không khí, gọi là khí bào.

      Bên trong lá phổi, được cấu tạo bởi vô số, khoảng sáu trăm triệu (600 triệu) túi nhỏ chứa không khí (khí bào), chia thành nhiều chùm khí bào, đi song song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng chịt.  Phổi được cấu tạo bởi những mô mềm xốp, co giãn, và có nhiều lỗ hình thức như một tổ ong. 

     Mỗi túi nhỏ khí bào chứa đựng một phần không khí được hít vào. Từ đó, dưỡng khí (Oxygen) được thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí, và thải trừ thán khí (Carbon-Dioxide) cùng với những chất cặn bã, do máu góp nhặt được trong hệ thống.  Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát nguồn dưỡng khí, và được thay vào bằng thán khí.

    Thể tích của hai lá phổi ở người trưởng thành, trung bình chứa từ 4 - 6 lít không khí, hoặc tương đương với số lượng không khí được chứa trong quả bóng rổ (basketball).  Nếu những mô tầng của hai lá phổi được tráng mỏng ra trên mặt phẳng, diện tích của nó có thể phủ lên một nửa sân chơi quần vợt. Bên ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi mặt trong của màng phổi vững chắc. Mặt ngoài của màng phổi nầy được dính vào thành trong lồng ngực. Vùng giữa màng phổi là một chất nước nhờn, để cho hai lá phổ di chuyển linh động, trong lúc hít thở không khí.

       3.2-Vai Trò Hoành Cách Mô:  Thân người được chia làm hai phần : Phần trên là lồng ngực, phần dưới là bụng.  Hai phần nầy được ngăn cách bởi một “Hoành Cách Mô”, một màng thịt gân có hình nón chóp bầu. Sự co giãn của lồng ngực và hoành cách mô đóng một vai trò chủ yếu trong tiến trình hít thở không khí.

     Lồng ngực chứa đựng hai lá phổi và tim, được bao phủ bởi bộ xương sườn, và xương ức.  Khi hít thở vào, hai lá phổi bắt đầu nở lớn dần dần, và gây nên sự kích thích các bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn.  Chính các bắp thịt nầy tác dụng tạo nên sự di động của bộ xương sườn, để cho lồng ngực được căng phồng lên.

     Do đó, bên trong lồng ngực có thêm một khoảng trống đủ sức chứa thể tích gia tăng của hai lá phổi.  Đây là loại thở bằng ngực hay thở trung bình, không có sự ảnh hưởng của hoành cách mô.  Phần chủ yếu là sự giãn nở lớn tối đa của lồng ngực, để đạt được một số lượng dưỡng khí lớn nhất, trong một thể tích không khí tối đa, ở vào vùng giữa của hai lá phổi.

      Đối với loại thở sâu hay thở thấp, hoặc thở đan điền, khi hít hơi vào, không khí không bị dừng lại ở vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không khí được đưa sâu xuống phần dưới của hai lá phổi. Đồng thời, tạo nên một sức ép trên mặt chóp bầu của hoành cách mô, và khiến cho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống phía bụng dưới, khoảng 4 cms  Động tác nầy tạo nên một khoảng trống, giữa mặt trên hoành cách mô, và phía dưới của hai lá phổi.  Do đó, không khí gia tăng làm cho phần đáy của hai lá phổi, giãn nở thêm xuống phía dưới. 

     Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ khí bào, ở vùng dưới hai lá phổi, phải hoạt động tích cực, để có một sự giãn nở lớn gia tăng tối đa.  Như thế, các túi nhỏ khí bào mới đạt được một thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều nầy rất quan trọng, vì cần phải có một số lượng dưỡng khí tối đa, để thay vào chỗ của số thán khí, cần được loại bỏ ra ngoài. Hơn nữa, còn cần một số dưỡng khí để dùng vào việc tác dụng phản ứng biến thể trong phổi.

      Ngoài ra, sức ép của hoành cách mô hướng xuống bụng dưới, làm cho một số máu dư, đang ứ đọng trong các nội tạng, và màng ruột, được ép dồn vào bên trong các tĩnh mạch, và tạo sự kích thích đôi dây thần kinh thái dương, tác động giúp cho tâm trí được thanh tịnh. Không khí được thở ra là bước sau cùng cần thiết, trong tiến trình hô hấp.

     Song song với không khí được thở ra, hai lá phổi co thắt nhỏ lại dần dần, cùng lúc với lồng ngực hạ thấp xuống, vì các bắp thịt giữa bộ xương sườn giảm dần tính kích thích, rồi trở lại bình thường.  Do đó, sức ép xuống của hoành cách mô bị mất ảnh hưởng, rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức đàn hồi tự nhiên.  Đồng thời, tạo nên một sức đẩy hướng thượng, tác động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp gia tăng sức ép từ dưới đáy phổi, tống mạnh không khí dơ bẩn, còn ứ đọng lại từ đáy phổi ra ngoài. 

4- TẬP HÍT THỞ SÂU–ĐAN ĐIỀN (Deep Breathing): 

     -Hít  Vào: -Đứng hoặc ngồi thoải mái, và hai lòng bàn tay ôm sát vào bụng.Hít hơi vào từ từ, bằng đường mũi, càng nhiều hơi như có thể, và đưa hơi sâu xuống, đến lúc bụng dưới phình to, cứng lên. –Rồi, giữ hơi lại vài giây đồng hồ, trước khi thở ra. để phổi chứa tối đa dưỡng khí.

    -Thở Ra: -Miệng thở ra từ từ, với hai môi khép nhẹ lại, để lỗ trống vừa đủ hơi thoát ra, cho đến khi bụng dưới trở lại bình thường, và phổi ép hết thán khí ra ngoài.

     Tiếp tục, lập lại hít vào và thở ra như thế, trong 5 lần, cho mỗi chu kỳ. Trong ngày, chúng ta có thể thực hiện 3 hoặc 4 chu kỳ./.

    -Dr. VŨ ĐỨC Âu Vĩnh Hiền, N.D.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 .

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn